Enzym gan phân thành 3 nhóm: (1) nhóm tăng cao trong huyết thanh phản ảnh tổn thương tế bào gan, (2) nhóm tăng cao trong huyết thanh phản ảnh tình trạng ứ mật và (3) nhóm tăng cao trong huyết thanh nhưng không phản ảnh chính xác cả 2 tình trạng trên. 

            Theo đó, các xét nghiệm sinh hoá gan thường sử dụng trong thực hành lâm sàng được phân làm 4 nhóm như sau:Nhóm đánh giá tình trạng tổn thương ứ mật như Alkaline Phosphatase (ALP) và Gama Glutamin Transpeptidase (GGT), nhóm đánh giá tình trạng tổn thương tế bào gan như các aminotransferase gồm ALT, AST, LDH, GLDH;  đánh giá khả năng tiết và thải độc gồm Bilirubin và Amoniac huyết thanh và đánh giá chức năng gan gồm Abumin huyết thanh, Prothrobin time/ INR.

          *  Các enzym đánh giá tổn thương hủy hoại tế bào gan

(1).  Các transaminase

    Xét nghiệm đo hoạt độ các transaminase thường được chỉ định để đánh giá tình trạng tổn thương gan, theo dõi tác động của các thuốc sử dụng có nguy cơ gây độc cho gan, theo dõi trước khi dùng thuốc cho người bệnh hoặc nghi ngờ có tổn thương gan do bất kỳ nguyên nhân nào khác: u gan, sán gan, áp xe gan.... Xét nghiệm transaminase cho phép xác định một bệnh lý gan mật và theo dõi tiến triển của bệnh. Là xét nghiệm cần thiết để tiếp tục theo dõi các bệnh nhân nghiện rượu được điều trị thuốc kháng lao (nguy cơ viêm gan do thuốc). Cần đo hoạt độ các transaminase gan trong 6 - 12 tuần sau khi bắt đầu điều trị rối loạn lipid máu bằng statin hoặc các thuốc giảm lipid máu khác.

  * Aspartate aminotransferase (AST): có trong bào tương cũng như trong ty thể và được thấy chủ yếu trong tế bào của các cơ quan: tim, gan,cơ xương, thận, tụy, hồng cầu, tiểu cầu. AST được giải phóng vào vòng tuần hoàn sau khi xảy ra tình trạng tổn thương hay chết của các tế bào chứa enzym này. Các AST có thời gian bán huỷ trong máu là 17h. Giá trị bình thường:nam <31UI/L/370C, nữ <25 UI/L/370C. Người già tăng nhẹ so với giá trị bình thường, trẻ sơ sinh tăng nhẹ.

   * Alanine aminotransferase (ALT:) có mặt duy nhất trong bào tương của các tế bào và được thấy chủ yếu trong các cơ quan gan, thận, tim, cơ xương. Các ALT có thời gian bán hủy trong máu 47h.  Giá trị bình thường:ALT: Nam: < 33 U/L/370C; Nữ: <25 U/L/370C (Theo hội tiêu hoá Hoa kỳ (American College of Gastroenterology: ACG). Để phân tích giá trị ALT và AST trên thực hành lâm sàng, chúng ta nên phân tích theo 3 bước:

       1- Hoạt độ  ALT và AST có tăng không ?

          Theo ACG 2017, tất cả các trường hợp ALT, AST trên ULN (33 I/L đối với nam và 25 I/L đối với nữ) nên được các thầy thuốc đánh giá hơn nữa về bệnh gan do tăng nguy cơ tử vong liên quan đến gan. Như vậy, ALT, AST được xem là tăng khi lớn hơn giá trị tham chiếu kể trên. Tuy nhiên, ngưỡng ALT, AST bình thường có thể không loại trừ được bệnh gan đáng kể.

       2-     Mức độ tăng hoạt độ ALT và AST như thế nào?

          Viêm gan cấp: ALT, AST tăng cao thường > 10 lần giá trị tham chiếu. Trong viêm gan cấp do virus (ngoại trừ do HCV, ALT và AST thường tăng không cao). Trong viêm gan cấp do thuốc, độc tố, ALT và AST tăng rất cao thường > 25 lần.

          Viêm gan mạn: ALT, AST thường tăng mức độ nhẹ và < 10 lần giá trị tham chiếu, (thường < 300 U/L). Tuy nhiên, trong đợt bùng phát cấp của viêm gan mạn (hepatitis flare), ALT và ALT tăng cao như  viêm gan cấp.

          Đối với xơ gan: ALT, AST tăng như viêm gan mạn và có thể không tăng.

          Viêm gan rượu: AST tăng từ 2 -10 lần, thường < 8 lần giá trị tham chiểu hay < 300 U/L; ALT tăng nhẹ < 5 lần hay thậm chí không tăng. AST tăng hơn 2 lần ALT kèm GGT tăng rất cao là đặc trưng của viêm gan do rượu.

          Trong viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (Nonalcoholic steatohepatitis: NASH), ALT và AST thường tăng < 4 lần, trong khoảng 50-150 U/L và ALT > AST.

          Tổn thương gan do thiếu máu cục bộ: AST, ALT tăng rất cao thường >50 lần giá trị tham chiểu, đây là tổn thương gây tăng men gan cao nhất, tuy nhiên sau đó giảm nhanh khi tình trạng huyết động cải thiện. LDH thường tăng sớm hơn, tăng cao hơn ALT và AST và tỷ số ALT/LDH < 1,5.

        3-  Xem xét tỷ số AST/ALT

          Tỷ số AST/ALT ở người bình thường khoảng 0,8 và thường nhỏ hơn 1. Ở một số trường hợp, tỷ số này thay đổi lớn hơn 1 giúp gợi ý chẩn đoán một số bệnh gan.

          Trong viêm gan rượu, thường tỷ số AST/ALT >2. Một phần do ALT tăng tương đối thấp so với AST vì thiếu pyridoxal-6-phosphate trong gan ở người nghiện rượu, đây là một đồng yếu tố cho hoạt động của ALT.

          Trong xơ gan, tỷ số AST/ALT thường >1. Tuy nhiên trong trường hợp xơ gan không do rượu, tỷ số AST/ALT hiếm khi >2.

           Khi AST/ALT >1 ở người không nghiện rượu, chúng ta nên xem xét khả năng bệnh nhân bị xơ gan, đặc biệt nếu có tình trạng tiểu cầu thấp dưới 150.000/mm3.

          Hầu hết các bệnh gan cấp hay mạn khác như viêm gan do virus, NASH, viêm gan tự miễn, Hemochromatosis, tắc mật…tỷ số AST/ALT <1.

(2) Gamma Glutamyl Transferase ( γGT hoặc GGT ) huyết tương

          GGT là một enzym gắn với màng tế bào (membrane-bound enzyme) tham gia vào quá trình xúc tác chuyển các nhóm gamma-glutamyl giữa các acid amin qua màng tế bào. Enzym này có hoạt độ cao ở gan, thận, tuỵ, đường mật và với hoạt độ thấp hơn ở tim, lách và ruột non. Tuy vậy, enzym lưu hành trong huyết tương có nguồn gốc chủ yếu từ gan. 

          Ở người nghiện rượu, GGT thường bị gia tăng đơn độc. Giá trị của enzym tương ứng với lượng rượu hấp thụ và nghiên cứu mức độ biến thiên của enzym theo thời gian giúp người thầy thuốc đánh giá thói quen dùng rượu của bệnh nhân. 

          Thời gian bán hủy của GGT là 17-26 ngày. Các yếu tố ảnh hưởng hoạt tính GGT gồm: giới (nam cao hơn nữ), tuổi (GGT tăng khi trên 40-50 tuổi), chủng tộc (người da đen cao hơn da trắng hay da vàng), hút thuốc lá (người hút thuốc có GGT cao hơn người không hút thuốc lá).

          Trong trường hợp tăng phosphatase kiềm, xác định GGT cho phép phân biệt nguồn gốc xương (GGT bình thường) với nguồn gốc gan mật của tình trạng tăng phosphatase kiềm (GGT tăng). GGT huyết thanh có thể tăng trong các bệnh lý khác bao gồm bệnh tuyến tụy, nhồi máu cơ tim, suy thận, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, đái tháo đường và nghiện rượu. Từ 10 đến 20% người bình thường, tỷ lệ γ-GT cao gấp 2 đến 3 lần mức bình thường mà không có bất kỳ bệnh lý nào.Giá trị bình thường:nam 5 - 38 U/L/370C hay nữ 5 - 38 IU/L/370C.

(3)Lactat dehydrogenase (LDH) huyết tương

          LDH có 5 isozym trong đó LDH5 có nhiều nhất ở gan, cơ xương, sự tăng nhẹ isozym này trong huyết tương thường gặp trong vàng da, bệnh đường mật, hoạt độ enzym này tăng cao, đặc biệt LDH5 trong ung thư gan nguyên phát hoặc thứ phát. Giá trị bình thường: nam 135-225 U/L/370C và nữ 134-215U/L/370C.

(4) Glutamat dehydrogenase (GLDH) huyết tương

          Là enzym có nhiều ở ty thể tế bào gan, tim, thận. GLDH tăng cao khi tổn thương gan ở mức độ nặng, có hủy hoại tế bào gan rộng. Hoạt độ GLDH bình thường ở 370C  ở nam là 9-40U/L và ở nữ là 9-35U/L.

  Cách lấy mẫu: lấy 2,5ml - 3ml máu tĩnh mạch chống đông heparin gửi phòng xét nghiệm Sinh hóa. Kết quả trả ngay trong ngày có thể sử dụng thẻ bảo hiểm Y tế hoặc chi phí dịch vụ nếu không có thẻ.