Gãy vùng mấu chuyển và cổ xương đùi là một tai nạn rất hay gặp ở người cao tuổi. Nguyên nhân thường gặp là do ngã trượt chân trên nền cứng, ngã đập vùng hông xuống đất, mật độ xương thấp và giòn do tuổi cao nên dẫn tới nguy cơ này. Vậy tại sao người cao tuổi (NCT) hay bị té ngã làm gãy vùng mấu chuyển xương đùi và cổ xương đùi?

1. Lý do người cao tuổi hay bị té ngã

+ Hệ thống cơ xương khớp của NCT bị giảm trương lực cơ là nguyên nhân hàng đầu gây lên nguy cơ bị té ngã bởi vì khó giữ vũng được cơ thể khi di chuyển.

+ Phản xạ với các tình huống khẩn cấp, bất ngờ chậm. Ví dụ khi bị té ngã phải xạ bấu vịn không kịp thời giúp giảm sang chấn.

+ Thị lực NCT giảm làm cho khả năng xác định trướng ngại vật giảm dẫn tới tăng nguy cơ té ngã.

+ Các bệnh mãn tính: suy thận, tăng huyết áp… làm thay đổi sinh hoạt như đi tiểu đêm… dẫn tới thức đêm nhiều để đi vệ sinh làm tăng nguy cơ té ngã.

+ Thiếu ánh sáng, không gian chật hẹp, nền nhà trơn trượt, thiếu hệ thống vịn hỗ trợ… là nguyên nhân gây té ngã.

2. Tại sao hay tổn thương vùng mấu chuyển xương đùi và cổ xương đùi?

Khi người cao tuổi bị té ngã thường đập vùng mông xuống nền cứng dẫn đến lực tác động trực tiếp đến vùng mấu chuyển. 

Người cao tuổi hay bị gãy vùng mấu chuyển và cổ xương đùi là do các yếu tố thuận lợi như: loãng xương, các bệnh về xương khớp, ít vận động, bị bệnh phối hợp trước đó như tai biến mạch máu não, yếu 1/2 người, hậu quả của cơn thiếu máu não thoáng qua gây mất tri giác tức thời và ngã...

Do đặc điểm giải phẫu của cấp máu vùng cổ xương đùi nên khi gãy các mạch máu nuôi vùng cổ và chỏm xương đùi bị tổn thương, dẫn tới mất khả năng cấp máu nuôi dưỡng, nguy cơ không liền xương hoặc tiêu chỏm xương đùi gần như chắc chắn xảy ra.

 

3. Những rắc rối gặp phải

Suy kiệt do NCT đã có thể trạng suy kiệt, khả năng hấp thu dinh dưỡng kém gây thiếu máu, thiếu hụt protein máu… khi bị gãy vùng mấu chuyển và cổ xương đùi gây lên mất máu làm trầm trọng thêm sự suy kiệt.

Do không liền xương và/hoặc tiêu chỏm, cổ xương đùi nên người bệnh khó có khả năng đi lại như trước khi gãy và kéo theo một loạt các hệ lụy do phải nằm tại chỗ, bất động như: chăm sóc vệ sinh cá nhân khó khăn; khó xoay trở, thay đổi tư thế người bệnh trên giường; đau đớn kéo dài do các đầu xương gãy chạm vào nhau; do nằm lâu nên các cơ quan như đại tràng, bàng quang không hoạt động sinh lý, dẫn đến đại tiểu tiện khó khăn, ứ trệ nước tiểu, nhiễm khuẩn tiết niệu; loét ở những vùng tỳ đè như mông, gót chân, lưng...; ứ trệ đờm dãi, phản xạ ho kém do nằm lâu, đau đớn sẽ gây ra viêm phổi do bội nhiễm, viêm tắc tĩnh mạch sâu chi dưới do người bệnh không hoặc ít vận động...

4. Một giải pháp tối ưu

Điều trị bảo tồn hay phẫu thuật kết xương bệnh nhân là NCT vẫn phải bất động dài ngày và khả năng liền xương để đi lại khó khăn và gây nhiều biến chứng.

Để giải quyết và hạn chế những biến chứng này, phẫu thuật thay khớp háng là một lựa chọn giúp người bệnh đỡ đau đớn; có thể ngồi dậy sớm ngay ngày đầu sau mổ, do vậy giúp vỗ rung, long đờm, hạn chế nguy cơ viêm phổi; giúp xoay trở, chăm sóc người bệnh dễ dàng hơn, tránh loét ở những vùng tỳ đè, đại tiểu tiện dễ dàng hơn...

Người bệnh 100 tuổi có thể vận động sớm sau phẫu thuật

Tuy nhiên, để có thể phẫu thuật được và phẫu thuật an toàn, bác sĩ cũng như người bệnh và gia đình phải cân nhắc và thống nhất chấp nhận những yếu tố rủi ro và nguy cơ ngoài mong muốn, thậm chí là tử vong trong và sau mổ, như: thể trạng người bệnh có đủ để phẫu thuật không? có các bệnh phối hợp không (ĐTĐ, FHA, tim mạch...); tiền sử dị ứng với các loại thuốc; nguy cơ của gây tê, gây mê; nguy cơ trong phẫu thuật...

Chú ý đến nâng cao thể trạng trước trong và sau phẫu thuật như truyền máu, đam… kết hợp tập phục hồi chức năng rất quan trọng. 

5. Kỹ thuật thay khớp háng bán phần

Thực tế và kinh nghiệm lâm sàng cho thấy, mặc dù phẫu thuật thay khớp háng ở người cao tuổi trên thế giới và tại Việt Nam đều có tỷ lệ rủi ro và tử vong nhất định nhưng với những trường hợp thể trạng người bệnh cho phép, đầy đủ phương tiện, trang thiết bị gây mê và phẫu thuật, thay khớp háng vẫn còn khả năng mang lại hy vọng cho người bệnh.

Người bệnh sẽ được vô cảm bằng gây tê tủy sống hoặc gây mê nội khí quản. Sau khi rạch da đường phía sau ngoài, phẫu thuật viên sẽ bộc lộ khớp háng. Khi mở vào bao khớp sẽ thấy đường gãy ở cổ xương đùi. Tiếp theo phẫu thuật viên sẽ lấy bỏ chỏm xương đùi rồi doa phần thân xương đùi để phù hợp với loại chuôi khớp háng sẽ thay thế. Sau khi lắp chuôi thử nếu thấy vận động tốt, khớp vững, có chiều dài chi bình thường, phẫu thuật viên sẽ thay khớp háng bán phần loại có hoặc không có xi măng. Đặt lại khớp háng, kiểm tra độ vững của khớp, tư thế khớp. Phẫu trường được dẫn lưu kín, hút áp lực âm. Vết mổ được khâu phục hồi phần mềm theo các lớp giải phẫu và băng vô khuẩn.

Sau phẫu thuật cần đặc biệt chú ý đến dinh dưỡng nâng cao thể trạng, dự phòng thuyên tắc mạch và tập vận động phục hồi chức năng sớm nhất có thể.

Tóm lại: Thay khớp háng bán phần cho NCT bị gãy vùng mấu chuyển và hoặc gãy cổ xương đùi là giải pháp rất tích cực giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.